TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA
TỪ ĐẠI HỘI VI ĐẾN ĐẠI HỘI XIII
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội loài người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Chính vì vậy, trong suốt chặng đường hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của văn hóa và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngay từ bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng đã chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo ba phương châm: dân tộc hóa; khoa học hóa; đại chúng hóa. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954) và chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975), Đảng luôn nhấn mạnh đến vai trò của lĩnh vực văn hóa và coi đây là một mặt trận để đấu tranh chống kẻ thù bên cạnh mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. Sau khi đất nước thống nhất, nhận thức của Đảng về văn hóa cũng ngày càng được nâng lên, trong đó các văn kiện từ Đại hội IV đến Đại hội V nhấn mạnh việc đẩy mạnh cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa và xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nhìn chung trước đổi mới, văn hóa mới chỉ được hiểu như là các hoạt động văn nghệ, vui chơi, giải trí. Mặt khác, do việc thể chế hóa các quan điểm của Đảng về văn hóa chưa được cụ thể, kịp thời và sự duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp nên lĩnh vực văn hóa cũng như các lĩnh vực khác thời kỳ trước đổi mới còn tồn tại nhiều bất cập.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986) đánh dấu bước đột phát về tư duy lý luận của Đảng. Cùng với sự đổi mới tư duy chính trị, tư duy kinh tế, Đảng đã có những đổi mới quan trọng trong nhận thức về văn hóa. Đại hội VI đề cao vai trò của văn hóa, nhấn mạnh đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hóa, tạo ra môi trường văn hóa phù hợp cho sự phát triển, lấy văn hóa làm động lực và mục tiêu cho công cuộc đổi mới. Đại hội khẳng định: "Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người"[1].
Tiếp đó, Nghị quyết 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VI đã làm rõ, phê phán quan niệm khá phổ biến trước đây coi văn hóa là hoạt động phi sản xuất, có tính tiêu dùng, hoặc chỉ là phương tiện giản đơn nhằm tuyên truyền cho chính trị: "... văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội"[2]. Nghị quyết cũng đã có sự điều chỉnh mới cả nội dung và cách diễn đạt khi xác định: "Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc"[3].
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt, Đảng ta lần đầu đưa khái niệm: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội"[4] đồng thời khẳng định: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"[5].
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương khóa VIII với Nghị quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" đánh dấu bước ngoặt lớn của Đảng trong nhận thức về văn hóa. Nghị quyết xác định 5 quan điểm: "1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; 2. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; 4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; 5. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng"[6]. Các quan điểm chỉ đạo trên đây đã thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa ở bình diện khái quát cao, bao quát được toàn bộ những vấn đề cốt lõi của việc xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Sự sáng tạo của Đảng không chỉ dừng lại ở việc nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện ở việc xác định rõ phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa.
Điểm nổi bật của Nghị quyết là việc xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa được hình thành trong lịch sử và được tích lũy qua nhiều thế hệ tạo ra một bề dày, một chiều sâu trong đời sống cộng đồng. Nó được duy trì bằng truyền thống tức là được trao truyền trong cộng đồng qua thời gian và không gian, là những giá trị tương đối ổn định (tri thức, kinh nghiệm, đạo lý) được cố định bằng các chuẩn mực, khuôn mẫu, phong tục, tập quán, luật tục và cả luật pháp quy định phương thức ứng xử của các cá nhân và cả cộng đồng. Các giá trị văn hóa dân tộc có vai trò liên kết cộng đồng, gắn kết cá nhân với cộng đồng, quá khứ với hiện tại và tương lai. Chính vì vậy, văn hóa được xem là nền tảng tinh thần của dân tộc chứ không phải là một hoạt động riêng biệt có tính chất ngành nghề, không phải là một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể, không phải chỉ là học vấn, văn nghệ...
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được phát triển qua các kỳ đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI. Văn hóa được xác lập vị trí là một trong ba bộ phận (kinh tế, xây dựng Đảng, văn hóa) hợp thành sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội"[7]. Các văn kiện Đảng thời kỳ này cũng đặc biệt quan tâm đến việc phát huy nguồn nội lực, coi đó là cơ sở của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nói phát huy nội lực là nói phát huy các tiềm năng của con người, của văn hóa dân tộc, coi đó là tài sản quý giá của quốc gia. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: "Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo..."[8]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục bổ sung, phát triển và làm rõ hơn vai trò là mục tiêu và động lực của văn hóa. Theo đó, văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Sau 15 năm thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, tại Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Đảng đã ban hành nghị quyết mới về văn hóa, thể hiện sự phát triển mới về tư duy lý luận. Đây là Nghị quyết được ra đời đúng lúc, đúng thời điểm bởi thực tế cho thấy, sau 15 năm thực hiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII mà rộng hơn là từ thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta có đi lên nhưng văn hóa chưa tương xứng nếu không nói là có dấu hiệu đi xuống. Sự đi lên của kinh tế cũng có những bước thăng trầm, chưa vững chắc bởi thực lực của nước ta chưa nhiều, chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, đầu tư nước ngoài, chứ chưa phải từ nội lực, từ yếu tố con người với đầy đủ trí tuệ, năng lực và những phẩm chất cần có. Chính vì vậy điểm mới trong Nghị quyết lần này đó là Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng ngang nhau của văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Văn hóa là lĩnh vực quan trọng ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội"[9]. Đặc biệt, sự phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa trong Nghị quyết này được thể hiện thông qua 2 quan điểm chỉ đạo mới so với nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo”; “Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế"[10].
Kế thừa những tư tưởng trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh""[11]. Đặc biệt, Đại hội đặt ra nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế. Đây là nhiệm vụ mới, liên quan đến sự đổi mới tư duy của Đảng về đặt văn hóa ngang bằng với các lĩnh vực kinh tế và chính trị, đồng thời nhận thức đúng đắn mối quan hệ hữu cơ, đan xen, chuyển hóa biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng được tổ chức từ ngày 25/01 đến ngày 01/02/2021 tại Hà Nội. Đối với lĩnh vực văn hóa và con người, trên cơ sở kế thừa những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XII đã xác định đồng thời căn cứ vào những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, những yêu cầu mới đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, các văn kiện của Đại hội XIII đã bổ sung và phát triển thêm nhiều nội dung mới trong lĩnh vực này.
Nếu Đại hội XII xác định nhiệm vụ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện thì Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu về phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng trong nhận thức mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa và con người, nhấn mạnh hơn đến vai trò của con người với tư cách là chủ thể và cũng là mục đích của việc phát triển nền văn hóa. Phát triển văn hóa chính là phát triển con người và ngược lại. Việc gắn kết xây dựng con người và văn hóa trong một thể thống nhất sẽ là cơ sở để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần cũng như động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về vấn đề chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người cũng được Đại hội XIII nhấn mạnh và là nội dung mới, thể hiện nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng về vị trí, vai trò của việc giáo dục, bồi dưỡng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần. Đặc biệt, các văn kiện nhấn mạnh đến công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng – những lực lượng quyết định tương lai của đất nước, càn được giáo dục, bồi dưỡng toàn diện nhưng cũng là những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, cần được quan tâm, chăm sóc. Đối với vấn đề giáo dục, bồi dưỡng con người Việt Nam, Đại hội nêu một nội dung mới, đó là: “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”[12]. Đây là lần đầu tiên trong các văn kiện chính thức, Đảng đặt vấn đề khắc phục những hạn chế trong mối quan hệ hữu cơ, không tách rời với việc giáo dục, phát huy những đức tính tốt đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Điều này thể hiện nhận thức ngày một sâu sắc, toàn diện và đa chiều hơn của Đảng về văn hóa và con người, vừa khẳng định những giá trị tốt đẹp có ý nghĩa quyết định làm nên bản sắc văn hóa và con người Việt Nam vừa thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá thực tế với tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm khắc. Cùng với vấn đề giáo dục, bồi dưỡng con người Việt Nam nói chung, Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu: “Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị”[13]. Việc đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử là một nội dung quan trọng của việc xây dựng văn hóa trong chính trị - nhiệm vụ đã được đề ra từ Đại hội XII. Xây dựng văn hóa trong Đảng là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, sự phát triển lý luận của Đảng ta về văn hóa nói chung và vai trò của văn hóa nói riêng là một quá trình. Từ chỗ văn hóa mới chỉ được hiểu như là các hoạt động văn nghệ, vui chơi, giải trí, Đảng đã nhận thức ngày càng đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn về văn hóa và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội trong đó con người được nhìn nhận là trung tâm trong chiến lược phát triển bền vững. Đó là sự phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự tiếp thu những quan điểm tiến bộ của thế giới về văn hóa. Thực tiễn xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức. Chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển văn hóa là nền tảng vững chắc để tạo ra những chuyển biến tích cực trong xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay./.
ThS Cao Thị Quỳnh
Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng - Trường Chính trị
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2010, tr.127.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2010, tr. 479.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2010, tr. 480.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2010, tr. 513.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2010, tr. 516.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.1998, tr. 55 -58.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2007, tr. 213.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 114.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2014, tr. 48.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2014, tr. 48-49.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 126.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.1, tr.143.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.1, tr.262