Đường dây nóng: 0212.3852.153

Lịch Giảng Dậy

Liên Kết Website

Video - Sự Kiện

Không có video - Upload lại link

Thống Kê

Hôm nay : 14
Hôm qua : 23
Tháng này : 597
Tổng truy cập : 236807
Đang trực tuyến : 1

Tin Tức ››

Vận dụng những điểm mới trong Văn kiện Đại Hội XIII về đổi mới mô hình tăng trưởng vào giảng bài “Mô hình tăng trưởng và phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam – Chương trình TCLLCT-HC”

Cập nhật: 08:27:34 16 / 07 / 2021
Lượt xem: 44

Vận dụng những điểm mới trong Văn kiện Đại Hội XIII về đổi mới mô hình tăng trưởng vào giảng bài “Mô hình tăng trưởng và phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam – Chương trình TCLLCT-HC”

 

 

                    Bạc Thị Bình

                    Giảng viên Khoa Xây dựng Đảng – Trường Chính trị tỉnh

 

Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia trên thế giới, là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận và thực tiễn. Bởi vì, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cơ bản và đầu tiên để đáp ứng nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của con người, là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế luôn là vấn đề cốt lõi của mọi nền kinh tế trên thế giới.

Mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế là vấn đề lớn, là nội dung quan trọng đã được nhất quán trong chủ trương, đường lối của Đảng từ Đại hội XI đến nay. Đại hội XI đã xác định: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững” [1]. Đại hội XII tiếp tục xác định “Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh, bền vững” [2].

Trong những năm vừa qua, nhiệm vụ này đã đạt được những kết quả quan trọng, mô hình tăng trưởng kinh tế đã chuyển mạnh từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, tái cơ cấu nền kinh tế được thực hiện tích cực, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh, góp phần tạo ra sự phát triển kinh tế ổn định với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Qua hai nhiệm kỳ Đại hội XI và XII, việc thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế tuy đạt được một số kết quả tích cực, nhưng vẫn chưa tạo được bước chuyển căn bản sang mô hình phát triển kinh tế mới. Hơn nữa, trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và đất nước, nhất là tác động của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra nhiệm vụ “đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng” với nhiều nội dung mới, yêu cầu mới. [3].

Để kịp thời bổ sung các quan điểm, chủ trương mới của Đảng vào giảng dạy chương trình Trung cấp LLCT – HC, phần IV: Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội, bài 2: Mô hình tăng trưởng và phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam, tôi nhận thấy rất cần thiết phải vận dụng những điểm mới tại Văn kiện Đại hội XIII vào giảng dạy bài này như sau:

Thứ nhất, ở phần 2.1.3. Xuất phát từ yêu cầu chủ động, thích ứng trong hội nhập kinh tế quốc tế. Giảng viên cần bổ sung làm rõ yêu cầu cấp thiết để Việt Nam phải đổi mới mô hình tăng trưởng là xuất phát từ yêu cầu thực hiện mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là Văn kiện Đại hội XIII đã xác định rõ hơn mục tiêu:phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó Đại hội đã xác định 3 mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thứ hai, ở phần 2.2.1. Mục tiêu của mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020. Ở phần này trong giáo trình chỉ đề cập mục tiêu của giai đoạn 2011-2020, so với thời điểm hiện tại là năm 2021 thì giáo trình đã có phần lạc hậu. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, giảng viên cần làm rõ những nhận thức mới về định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng trong Văn kiện Đại Hội XIII. Cụ thể là Văn kiện Đại hội XIII xác định cần phải "đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng", "chuyển mạnh" nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng mới, "tạo bứt phá" trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đại hội XIII đề ra chỉ tiêu đến năm 2025: Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm và đến năm 2030: đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt 50%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm.

Thứ ba, ở phần 2.2.3. Giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đại hội XIII yêu cầu tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải được đẩy mạnh hơn, thực hiện mạnh mẽ hơn, với những giải pháp đầy đủ, đồng bộ hơn trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đạt mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế ở mức cao hơn. Vì vậy, giảng viên cần làm rõ nguồn lực tăng trưởng được xác định trong Đại Hội XIII: “trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới, việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh phải dựa trên tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là việc ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nhân lực chất lượng cao”.

Đại hội XIII xác định phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của đổi mới mô hình tăng trưởng, cũng như của tăng trưởng kinh tế; từ đó, yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học - công nghệ; ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực kinh tế; khuyến khích nhập khẩu, chuyển giao công nghệ tiên tiến của thế giới, nâng cao năng lực hấp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.

Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu, rộng. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục đào tạo, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển con người toàn diện. Chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia, đội ngũ nhân lực kỹ thuật và quản trị công nghệ, quản trị doanh nghiệp. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, trong quản lý, quản trị Nhà nước. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nghề nghiệp, đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, hình thành đội ngũ lao động lành nghề, có kỹ năng làm việc, tư duy sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, năng lực thiết kế, thi công xây lắp, quản lý xây dựng theo hướng tiên tiến, hiện đại, đủ sức thực hiện những công trình xây dựng lớn, hiện đại, phức tạp trong nước và thế giới. Phát triển các loại vật liệu xây dựng mới, thông minh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường; trong đó, ưu tiên phát triển những công nghệ tiên tiến, hiện đại, mức độ tự động hóa cao, sử dụng tối đa công nghệ số, công nghệ nano, vật liệu không nung, sử dụng nhiên liệu tái chế, các loại chất thải để sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, phát triển kinh tế tuần hoàn.

Thứ tư, ở phần 3.2.2. Giải pháp phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam. Giảng viên cần làm rõ định hướng cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới theo quan điểm của Đại Hội XIIIcần tập trung vào một số vấn đề trọng tậm như sau:

- Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát huy tiềm năng, lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo chuẩn mực quốc tế, có giá trị gia tăng cao, phát triển bền vững. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển các loại cây, con có lợi thế, có giá trị cao, phù hợp với yêu cầu của thị trường, thích ứng với điều kiện đất đai, khí hậu, biến đổi khí hậu ở từng vùng. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ để đổi mới, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ trong mọi khâu, mọi lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp, nhất là công nghệ gien, công nghệ sinh học, công nghệ số trong sản xuất, quản lý sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản. Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, mạng sản xuất, nhân rộng mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Quan tâm tới xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, tuân thủ quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc, kiểm định chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

- Hai là, cơ cấu lại, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số; tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, công nghệ mới như công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học, sản xuất ôtô, robot, thiết bị, phương tiện vận hành tự động, điều khiển từ xa, sản phẩm số, công nghiệp an toàn thông tin, công nghiệp dược phẩm, sản xuất chế phẩm sinh học, công nghiệp môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu. Dựa trên công nghệ mới, hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp vẫn còn lợi thế (chế biến nông sản, dệt may, da giày...) tạo nhiều việc làm, hàng xuất khẩu, tập trung vào các khâu có giá trị gia tăng cao. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn công nghiệp quốc gia. Phấn đấu đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 25% GDP, kinh tế số đạt khoảng 20% GDP và đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 40% GDP, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP.

- Ba là, phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, nhất là những dịch vụ có lợi thế, dịch vụ có giá trị gia tăng cao trên cơ sở ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số, các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tập trung phát triển mạnh một số ngành dịch vụ như: du lịch, thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, logistic, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý... Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán, các dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao... Nâng cao tính chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế, khả năng cạnh tranh quốc tế của các dịch vụ.

- Bốn là, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng chủ công, trực tiếp thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Hoàn tất việc sắp xếp lại, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhất là việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu, giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa. Đến năm 2025 hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước, cơ bản xử lý xong những yếu kém, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa. Củng cố, phát triển doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực quan trọng với đất nước nhưng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư, nhất là 4 lĩnh vực mà Nhà nước cần đầu tư và nắm giữ vốn theo quy định Luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là chuyển đổi số, các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao, có phẩm chất đạo đức tốt; quản trị doanh nghiệp hiện đại, theo chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.

- Năm là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng với một số công trình hiện đại. Tập trung đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, quy mô lớn, nhất là về giao thông, thủy lợi, năng lượng, hạ tầng kỹ thuật số để khắc phục cơ bản những "điểm nghẽn" cản trở sự phát triển, tăng cường kết nối với các vùng, các trung tâm kinh tế trong nước, kết nối với khu vực và quốc tế. Xây dựng cơ chế đẩy mạnh huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, đa dạng hóa hình thức đầu tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng.

- Sáu là, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, năng lực kiến tạo phát triển của Nhà nước. Tiếp tục kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước các cấp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp; thực hiện đúng vai trò, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh. Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh. Phấn đấu đến năm 2030, môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử hướng tới chính phủ số, chính quyền số. Tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước; xây dựng, đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, liên thông các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, nhà ở, bảo hiểm, y tế, giáo dục, doanh nghiệp... Hoàn thiện các hệ thống thông tin một cửa điện tử, cổng dịch vụ công các cấp kết nối với cổng dịch vụ quốc gia. Thúc đẩy việc xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng, hướng tới cơ quan nhà nước "không giấy tờ". Phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc; đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.

Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là những nội dung quan trọng được thể hiện trong văn kiện Đại hội XIII về lĩnh vực kinh tế. Trong đó, xuyên suốt trong các nội dung này là chất lượng của việc chuyển đổi, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạolàm nền tảng, đặc biệt tận dụng những cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại là hết sức quan trọng. Mục tiêu hướng tới nhằm phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đây sẽ là nhiệm vụ quan trọng, và xuyên suốt trong những năm tới để xây dựng nền kinh tế hiện đại, chất lượng và phát triển bền vững.

Cập nhật kiến thức là nhiệm vụ thường xuyên tất yếu của mỗi giảng viên giảng dạy lý luân chính trị. Trên cơ sở những quan điểm, chủ trương mới của Đảng ta về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế được bổ sung tại Đại hội XIII, tác giả bài viết thiết nghĩ rằng các nội dung cần được đưa vào soạn giảng để làm rõ thêm những nội dung trong giáo trình cũng như đưa những nội dung quan điểm đó của Đảng đến với học viên. Hy vọng thông qua bài viết này, sẽ góp một phần kinh nghiệm nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy phần IV – Chương trình TCLLCT – HC, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác đào tạo bồi dưỡng của nhà trường./.

 

 

Tài liệu tham khảo

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, tr.107, 191.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H, 2016, tr.87, 280.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H, 2021, t.1, tr.114, 115, 120-127, 217, 218, 227-230; t.2, tr.104-114, 121-124, 146-149.

 


Các tin khác: